Translate

Thứ Năm, 22 tháng 10, 2015

Các nhà Khoa học đoạt giải Nobel nghĩ gì về Đức Chúa Trời?



CÁC NHÀ KHOA HỌC ĐẠT GIẢI NOBEL NGHĨ GÌ VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI?
************
GIÁO SƯ: “Có những ngày tôi tin vào Chúa Trời, những ngày khác thì không.” Những lời trên là của một nhà vật lý học từng đoạt giải Nobel vật lý – Tiến sĩ Leon Lederman [LED-er-man].
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Việc một nhà khoa học tin rằng Chúa Trời có thể tồn tại có phải là bất thường không?
GIÁO SƯ: Tôi cũng đã tự hỏi điều đó khi đọc lời bình luận của tiến sĩ Lederman. Vì vậy tôi đã nghiên cứu những điều một số nhà khoa học đoạt giải Nobel đã nói về Chúa Trời. Nếu bạn thể dành ra được 15 phút, tôi sẽ rất vui được thảo luận về những điều mình khám phá được.
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Xin cho tôi biết thêm về lời phát biểu mà Giáo sư đã trích dẫn vài phút trước. Nhà vật lý học nói rằng, “Có những ngày tôi tin vào Chúa Trời, những ngày khác thì không” có giải thích thêm chi tiết nào không?
GIÁO SƯ: Vâng. Không lâu sau khi đoạt giải Nobel vật lý năm 1988, tiến sĩ Leon Lederman đã phát biểu với tờ Chicago Tribune, tôi xin được trích ở đây, rằng “...Sẽ luôn có chỗ cho Chúa Trời. Nếu chúng ta khám phá được mọi quy luật của vật lý, câu hỏi vẫn còn, đó là ‘Ai đã thiết lập các quy luật nầy?’ ”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Từ nhiều năm nay tôi đã được bảo là tất cả các nhà khoa học đều là người vô thần. Có phải tiến sĩ Lederman là nhà khoa học duy nhất ở tầm cỡ đoạt giải Nobel tin rằng Chúa Trời tồn tại không?
GIÁO SƯ: Không phải vậy đâu! Nhà vật lý học người Đức Max Born đoạt giải Nobel vật lý năm 1954 về cơ khí lượng tử. Có lần ông đã bình luận “Những người cho rằng nghiên cứu khoa học khiến một người trở nên vô thần, là những người ngốc.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Tại sao ông ấy lại nói như vậy?
GIÁO SƯ: Ông ấy không nói rõ. Nhưng những nhà khoa học đoạt giải Nobel khác đã giải thích vì sao tin vào Chúa Trời cũng hoàn toàn có lý đối với họ. Chẳng hạn, nhà nghiên cứu người Anh gốc Đức, tiến sĩ Ernst Boris Chain đã được trao giải thưởng Nobel y khoa về công trình nghiên cứu liên quan đến khả năng chữa trị của pê-ni-xi-lin. Ông đã bình luận “Xác xuất để một sự kiện như việc hình thành phân tử ADN xảy ra bởi một sự trùng hợp tuyệt đối là quá nhỏ để có thể được xét đến một cách nghiêm túc... Giả thuyết về quyền năng chi phối trong sự hình thành và phát triển của các quá trình cần thiết cho sự sống trở nên một điều thiết yếu trong bất cứ lối giải thích nào.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Nói cách khác, phải có một bộ não kiểm soát sự sáng tạo.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Erwin Schrodinger [ER-win SHROH-ding-er], một nhà vật lý học người Áo tiên phong trong vật lý lượng tử được trao giải Nobel vật lý năm 1933, cũng phát biểu một ý kiến tương tự.
Nhưng Schrodinger đã đi xa hơn mục đích của vũ trụ, đến mục đích của cuộc sống con người. Tôi xin được trích dẫn:
“Tôi hết sức ngạc nhiên rằng bức tranh khoa học của thế giới thực xung quanh tôi thật thiếu hụt. Nó cho rất nhiều thông tin xác thực và sắp xếp những kinh nghiệm của chúng ta theo một trật tự thích hợp, đẹp đẽ, nhưng nó lại yên lặng đáng sợ về tất cả những điều thật sự quan trọng đối với chúng ta. Nó không thể phân biệt đắng và ngọt, đau buồn và vui sướng. Nó không biết gì về đẹp hay xấu, tốt hay không tốt, Đức Chúa Trời và cõi đời đời. Đôi khi khoa học giả vờ trả lời những câu hỏi thuộc về những lĩnh vực nầy, nhưng những câu trả lời thường ngây ngô đến mức chúng ta không có chiều hướng xem trọng chúng.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Đó đúng là một điểm thú vị. Khoa học tự nhiên quá khách quan đến mức không thể cho chúng ta biết đâu là đẹp hay xấu, tốt hay không tốt.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Và việc quyết định liệu Chúa Trời có tồn tại hay không là vượt quá khả năng của khoa học.
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Không có thí nghiệm nào của khoa học có thể phát hiện được Chúa Trời.
GIÁO SƯ: Đúng rồi. Một số lời phát biểu uyên thâm nhất về Chúa Trời đến từ những nhà khoa học sống trước thời có giải Nobel. Giải thưởng Nobel chỉ được lập ra vào thế kỷ 20. Nếu giải thưởng này ra đời sớm hơn, nhà toán học và vật lý học người Pháp vào thế kỷ thứ 17 là Blaise Pascal [blez pas-KAL] hẳn đã được trao giải.
Pascal tin rằng Chúa Trời đã bày tỏ về Ngài qua cái mà ông gọi là “hai cuốn sách.” Thứ nhất, Đức Chúa Trời bày tỏ sự khôn ngoan và quyền năng của Ngài qua những tạo vật của Ngài – đó là cuốn sách của cõi thiên nhiên. Thứ hai, Đức Chúa Trời cho chúng ta thêm thông tin về Ngài trong lời của Ngài đã được chép ra, đó là Kinh Thánh.
Tôi xin được trích dẫn Pascal, “Đừng ai nghĩ rằng một người nào đó có khả năng nghiên cứu sâu xa hay quá kỹ lưỡng quyển sách lời Chúa hay quyển sách về những công việc của Ngài.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Ý tưởng đó mới đối với tôi đấy– ý tưởng rằng cõi thiên nhiên là một cuốn sách được viết bởi Đức Chúa Trời, và chúng ta có thể học được một điều gì đó về Đức Chúa Trời bằng cách nghiên cứu thế giới mà Ngài đã tạo dựng. Tôi muốn biết thêm.
GIÁO SƯ: Bạn có thể nói rất nhiều về một kỹ sư hay một nghệ sĩ mà không cần phải từng gặp gỡ người đó. Ngắm một bức tranh hay lái thử một chiếc xe, bạn có thể biết người đó tài năng đến mức nào, và người đó làm việc cẩn thận đến đâu. Tương tự, Kinh Thánh chép rằng “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm. Ngày này giảng cho ngày kia, đêm này tỏ sự tri thức cho đêm nọ.” (Thi Thiên 19:1 & 2)
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Nói cách khác, trật tự của các tinh tú bày tỏ sự khôn ngoan và trật tự của Đức Chúa Trời đã tạo nên chúng.
GIÁO SƯ: Vâng. Kinh Thánh cho biết thêm rằng cuốn sách của cõi thiên nhiên rõ ràng đến mức cách duy nhất con người bỏ sót thông điệp của nó là cố ý đóng suy nghĩ của họ lại.
Sách Rô-ma trong Kinh Thánh chép rằng “Vả, cơn giận của Đức Chúa Trời từ trên trời tỏ ra nghịch cùng mọi sự không tin kính và mọi sự không công bình của những người dùng sự không công bình mà bắt hiếp lẽ thật. Vì điều chi có thể biết được về Đức Chúa Trời thì đã trình bày ra cho họ, Đức Chúa Trời đã tỏ điều đó cho họ rồi, bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Khi chúng ta nghiên cứu dải ngân hà hoặc ADN, chúng ta thấy sự khôn ngoan và quyền năng của Đức Chúa Trời chứa đựng trong đó.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Pascal còn nói thêm “Đức Chúa Trời đã đưa ra đủ bằng chứng về sự tồn tại của Ngài, để chúng ta có thể tin. Nhưng Ngài không đưa ra đủ bằng chứng để khiến niềm tin đó trở nên ràng buộc.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Có phải ông ấy nói rằng Đức Chúa Trời bày tỏ đủ về Ngài để chúng ta có thể tin vào Ngài. Nhưng Đức Chúa Trời không bày tỏ về Ngài một cách thuyết phục để buộc chúng ta phải tin Ngài không?
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Đức Chúa Trời tôn trọng sự khôn ngoan của chúng ta bằng cách khuyến khích chúng ta tư duy trong quá trình khám phá Ngài. Và Ngài tôn trọng quyền tự do của chúng ta, bằng cách không buộc chúng ta phải tin ngược lại với ý chí của mình.
Pascal nghĩ như vậy bởi vì, thay vì tạo ra chúng ta là những rô-bốt hay con người máy, Đức Chúa Trời muốn chúng ta lựa chọn Ngài và yêu Ngài. Pascal nói rằng nếu Đức Chúa Trời bày tỏ cho chúng ta mọi quyền năng và sự khôn ngoan của Ngài, điều đó sẽ không sản sinh ra tình yêu, mà là sự khiếp sợ.
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Như vậy là có một số lớn các nhà khoa học lỗi lạc tin vào Đức Chúa Trời.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Nhiều nhà khoa học thấy rằng càng học biết nhiều về tự nhiên bao nhiêu, họ càng dễ tin vào Đức Chúa Trời bấy nhiêu.
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Điều đó nhắc tôi nhớ đến phát ngôn của một người nào đó, rằng: “Thiên nhiên là một hệ quả, mà nguyên nhân là Đức Chúa Trời.”
GIÁO SƯ: Đó là một sự tóm lược toàn hảo cho những gì Pascal và những nhà khoa học khác đã khám phá ra.
Trước khi hết giờ, tôi muốn được trích dẫn từ nhà vật lý học người Mỹ thế kỷ hai mươi, tiến sĩ Arthur Holly Compton [KOMP-tun]. Nhờ khám phá ra Hiệu ứng Compton, liên quan đến tia X, Compton đã được trao giải thưởng Nobel vật lý.
Tiến sĩ Compton đã viết: “Với tôi, đức tin bắt đầu bởi sự nhận biết rằng một sự khôn ngoan siêu việt đã dựng nên vũ trụ và tạo nên con người. Không khó để tôi có niềm tin này, bởi một vũ trụ thông minh, trật tự đã xác nhận cho phát ngôn vĩ đại nhất: ‘Ban đầu, Đức Chúa Trời dựng nên trời đất...’”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Chúng ta đã thảo luận được khá nhiều thông tin trong ngày hôm nay. Giáo sư sẽ tóm lược những điều các nhà khoa học đoạt giải Nobel nghĩ về Đức Chúa Trời như thế nào?
GIÁO SƯ: Tiến sĩ Leon Lederman đã từng nói: “Có những ngày tôi tin vào Chúa Trời, những ngày khác thì không. Sẽ luôn luôn có chỗ cho Chúa Trời. Dù chúng ta có khám phá ra mọi quy luật của vật lý, câu hỏi vẫn còn đó: ‘Ai đã thiết lập các quy luật nầy?’”
Tiến sĩ Ernst Chain nhìn thấy mục đích và sự khôn ngoan trong các cấu trúc tự nhiên như ADN. Ông kết luận rằng: “Giả thuyết về quyền năng chi phối … trở nên một điều thiết yếu trong bất cứ lối giải thích nào.”
Tiến sĩ Compton gọi Đức Chúa Trời là “sự khôn ngoan siêu việt” và nói rằng: “một vũ trụ thông minh, trật tự đã xác nhận cho phát ngôn vĩ đại nhất: ‘Ban đầu, Đức Chúa Trời dựng nên trời đất...’”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Nói cách khác, không hẳn các nhà khoa học đoạt giải Nobel đều là người vô thần.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Tiến sĩ Richard đến từ đại học Stanford [STAN-ford] đã nhận xét: “Số lượng các nhà khoa học vô thần cũng nhiều như số các tài xế xe tải vô thần.”
Và đây là lời trích dẫn cuối cùng từ nhà vật lý học đoạt giải Nobel vật lý năm 1997. Tiến sĩ William Phillips nói rằng ông không thể đi hết sảnh nhà thờ của mình mà không gặp hàng chục nhà khoa học.
Trí tuệ không phải là một trở lực đối với niềm tin nơi Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta yêu Ngài bằng lý trí của chúng ta.
Nguồn : Phuong Tran Facebook

Thứ Năm, 8 tháng 10, 2015

Kinh Thánh: tác phẩm văn hóa



Kinh Thánh: Tác phẩm văn hóa vô giá của nhân loại
Tác giả: Nguyễn Hải Hoành


Một số hiểu lầm về Kinh Thánh
Cho tới nay dường như vẫn có nhiều người nghĩ rằng Kinh Thánh là sách nói về giáo lý của đạo Ki-tô, thuần tuý là sách tôn giáo, chỉ dùng cho các tín đồ Ki-tô giáo mà thôi – mà tôn giáo lại là lĩnh vực nhạy cảm, ở ta quen gọi là “thuốc phiện của nhân dân”, chớ có dại mà đụng chạm tới – vì vậy ai không theo Ki-tô giáo thì chẳng cần và chớ nên đọc Kinh Thánh. Cuốn sách gối đầu giường của hơn một tỷ tín đồ và được cả thế giới không ngừng xuất bản với số lượng nhiều nhất này chưa từng thấy bán tại các hiệu sách ở ta. Báo in, báo điện tử ngại đăng các bài viết liên quan tới Kinh Thánh.
Thực ra cách hiểu như vậy là lệch lạc và bất lợi cho mọi người trong việc tìm hiểu văn hóa nhân loại và văn hóa phương Tây nói chung cũng như văn hóa Ki-tô giáo nói riêng.
Hiểu lầm nói trên có thể bắt nguồn từ bản thân tên “Kinh Thánh” đem lại ấn tượng “thần thánh”, thần bí. Đây là cái tên không chính xác, dễ gây hiểu nhầm. Thực ra sách này vốn dĩ có hai tên gốc: 1) Tên tiếng Hy Lạp là Biblia, nghĩa là “sách”;  2) Tên tiếng La Tinh là Scriptura, nghĩa là “trước tác” “bài viết”, “bản thảo” – nói cách khác, nó hoàn toàn không có chút nào ý nghĩa thần thánh. Tiếng Anh đầu tiên gọi là Biblelh, về sau thống nhất gọi là The Bible, nghĩa là sách kinh điển.
Tên sai là do ta dùng từ hoàn toàn theo Trung Quốc. Ngày xưa, khi dịch Cựu Ước toàn thư và Tân Ước toàn thư ra chữ Hán, người Trung Quốc gán cho hai cuốn sách này cái tên “Thần thánh điển phạm” (Mẫu mực thiêng liêng) và “Thiên kinh địa nghĩa” (Đạo nghĩa muôn thủa); về sau, khi in gộp Cựu Ước và Tân Ước thành một bộ sách, người Trung Quốc ghép hai chữ thứ hai lại thành “Thánh Kinh”, nghe nặng tính thần thánh, khiến người ta dễ hiểu lầm sách này chỉ là sách kinh điển của Ki-tô giáo. Quả thật, cái tên đó khi dịch sang tiếng Việt là Kinh Thánh đã nhuốm đậm màu sắc tôn giáo, thánh thần, trở nên xa lạ với cộng đồng người không theo tôn giáo.
Đây thật là một sai lầm lịch sử đáng tiếc nhưng không thể sửa được vì đã quen dùng và cảm thấy thiêng liêng. Vì thế rất ít người Việt Nam thực sự biết Kinh Thánh là gì, nội dung ra sao, có ý nghĩa thế nào đối với chúng ta. Đây là một thiệt thòi lớn về tri thức cho mọi người, nhất là thanh thiếu niên.
Sơ lược nội dung Kinh Thánh
Kinh Thánh gồm hai phần: Cựu Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament), do hơn 40 tác giả viết trong suốt hơn 1.600 năm từ thế kỷ 12 trước CN cho tới thế kỷ 2 sau CN, là một tác phẩm đồ sộ, bản tiếng Việt dày tới 1.400 trang chữ khổ nhỏ.
Cựu ƯớcGiao ước cũ của người Hebrew (nay gọi là Do Thái) với Thượng Đế, là Kinh điển của người Hebrew, thực tế là bộ sử của một dân tộc dẫn đầu nền văn hoá nhân loại. Từ 5.000 năm trước, người Hebrew đã sáng suốt chỉ tin một đấng tối cao duy nhất họ gọi là Jehovah tức Thượng Đế (God), được hiểu là một sức mạnh siêu nhiên sáng tạo ra tất cả (Tạo Hóa, the Creator) – khái niệm ấy ngày nay ta chưa hiểu rõ song lại chưa thể phủ nhận – chứ không thờ một thần thánh nào có nguồn gốc từ người hoặc vật.
Cựu Ước gồm 39 cuốn chia 4 phần: sách Luật pháp (5 cuốn đầu của Moses); sách Lịch sử (12 cuốn); sách Tiên tri (16 cuốn); sách Văn thơ (6 cuốn). Cựu Ước rất ít màu sắc tôn giáo, nó chứa đựng vũ trụ quan, nhân sinh quan cổ xưa nhất của nhân loại, là tài liệu vô cùng quý giá rất đáng nghiên cứu. Sách Cựu Ước nguyên văn viết hầu hết bằng tiếng Hebrew và một phần bằng tiếng Aramaic (tiếng của người Aram, tức Syria cổ), do nhiều người viết suốt từ năm 1.200 đến năm 100 trước CN và được truyền miệng từ rất lâu trước khi viết thành văn. Tuy cổ xưa như thế nhưng Cựu Ước là một văn bản có thực và tồn tại cho tới ngày nay. Chứng cớ là thời gian 1947–1956, người ta phát hiện trong các hang động gần Biển Chết (Dead Sea, ở Israel) chứa hơn 900 “sách” có viết chữ (chữ Hebrew, Hy Lạp, Aramaic) bằng dùi nung trên da cừu, gọi là Sách Cuộn Biển Chết (Dead Sea scrolls), đựng trong các bình gốm cao. Giám định cho thấy số sách này được làm vào khoảng từ năm 100 trước CN tới 70 sau CN, là những bản sao cổ xưa nhất còn tồn tại của Cựu Ước (nội dung hoàn toàn như Kinh Cựu Ước hiện sử dụng) và một số kinh điển khác của người Hebrew. Phát hiện Sách Cuộn Biển Chết có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Tân ƯớcGiao ước mới của các tín đồ Ki-tô giáo với Thượng Đế, nguyên văn viết bằng tiếng Hy Lạp, ra đời một thế kỷ sau khi xuất hiện đạo Ki-tô, tức rất muộn so với Cựu Ước, và nặng mầu sắc tôn giáo hơn; nó trình bày cuộc đời và học thuyết của Chúa Jesus. Tân Ước gồm 27 cuốn, chia 3 phần: sách Phúc Âm (5 cuốn); sách giáo lý (21 cuốn); sách Khải Huyền (1 cuốn). Số trang của Tân Ước chỉ bằng khoảng gần 1/3 Cựu Ước. Các học giả cho rằng Tân Ước được viết xong vào khoảng năm 382 sau CN.
Kinh Thánh là một bộ sách có tính tổng hợp, một bách khoa toàn thư rất hữu ích trong việc nghiên cứu nhân loại cổ đại về các mặt lịch sử, chính trị, quân sự, pháp luật, luân lý đạo đức, kinh tế, khoa học kỹ thuật, y học, văn hoá … Chưa dân tộc nào viết được bộ sử của mình một cách khái quát, hữu ích như Cựu Ước. Bộ sử này không viết nhiều về đời sống, hành vi của các vua chúa (như Sử Ký của Tư Mã Thiên), nhưng viết rất kỹ về quá trình di chuyển, các tai họa dân tộc (chiến tranh, đói kém …), các kinh nghiệm và đời sống của dân tộc này, qua đó đời sau có thể học được nhiều điều bổ ích.
Cựu Ước ghi lại đời sống mọi mặt của người Hebrew, từ việc lớn của quốc gia, dân tộc cho tới những chi tiết rất nhỏ nhặt trong ăn ở, đối nhân xử thế, thậm chí cả trong sinh hoạt tình dục, nhờ thế giúp hậu thế hiểu chính xác, chi tiết về đời sống tinh thần vật chất của họ cách đây mấy nghìn năm. Một thí dụ: phương pháp tránh thai phổ biến nhất, cổ nhất xưa nay là xuất tinh ngoài âm đạo – phương Tây gọi là Onanism – từ này có nguồn gốc trong Kinh Thánh, chương 38 “Sáng thế ký (Genesis)” “Giuđa và con dâu là Tama”.[1]
Chưa dân tộc nào biên soạn và còn lưu giữ được một tác phẩm kinh điển có giá trị như Kinh Thánh phần Cựu Ước. Thí dụ “Kinh thánh” của văn minh Trung Hoa là sách Luận Ngữ hoàn toàn không có được tính tổng hợp như vậy, chưa kể còn ra đời sau 7 thế kỷ.
Kinh Thánh còn là một tác phẩm văn học đồ sộ, di sản quý báu của nhân loại. Trong Cựu Ước có các tác phẩm văn học trí tuệ, văn học tiên tri và văn học khải huyền, là những sáng tạo của người Hebrew.
Tính chất quan trọng của Kinh Thánh
Kinh Thánh có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại của dân tộc Do Thái. Cựu Ước là kinh điển của đạo Do Thái, nhờ tôn giáo này mà người Do Thái dù hai nghìn năm mất tổ quốc, sống lưu vong phân tán ở khắp nơi trên thế giới, bị hắt hủi, xua đuổi, thậm chí hãm hại, tàn sát nhưng vẫn giữ nguyên vẹn được nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa và nhất là họ luôn dẫn đầu thế giới trong các hoạt động trí tuệ. Ngày ngày cầu kinh, ôn lại lịch sử khốn khổ của dân tộc mình, là cách nhắc nhở người Do Thái luôn nhớ quá khứ gian nan của mình để cố gắng vươn lên thoát khỏi nghịch cảnh. Dân tộc nhỏ bé này có đóng góp cho nhân loại nhiều hơn mọi dân tộc khác. Một thí dụ: người Do Thái chỉ chiếm 0,25% số dân thế giới nhưng họ chiếm 22% tổng số giải Nobel các loại đã trao trong thời gian 1901-2007; trong đó có 41% giải Kinh tế, 26% giải Vật lý, 19% giải Hóa học, 28% giải Y học, 13% giải Văn học, 9% giải Hòa bình.
Đối với loài người, tính chất quan trọng của Kinh Thánh không chỉ thể hiện ở chỗ nó được in đi in lại với số lượng nhiều nhất thế giới, mà còn ở chỗ được người ta quan tâm đọc và trích dẫn nhiều nhất – đây là tiêu chuẩn định lượng đánh giá một tác phẩm. Cho tới nay, Kinh Thánh đã lưu truyền mấy nghìn năm chưa bao giờ ngừng, được dịch ra 1.800 ngôn ngữ của khắp thế giới, có ảnh hưởng tới hàng tỉ người kể cả người không theo tôn giáo nào. Riêng nước Mỹ hàng năm in khoảng 9 triệu bản Kinh Thánh. Trung Quốc đã in hơn 40 triệu bản.
Kinh Thánh là nguồn cảm hứng và trích dẫn của nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, lịch sử, triết học v.v… trên toàn thế giới. Từ bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng của Leonard de Vinci, tập thơ Thần khúc của Dante, các vở kịch của Shakespeare (vở Hamlet trích dẫn Kinh Thánh nhiều nhất), cho tới tiểu thuyết Sống lại của Tolstoy, …vô số tác phẩm văn học nghệ thuật đều lấy nguồn từ Kinh Thánh. Các trước tác của Karl Marx và Engels trích dẫn Kinh Thánh hơn 300 lần, liên quan tới hơn 80 nhân vật trong đó. Tại Trung Quốc, Lỗ Tấn, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn … đều trích dẫn Kinh Thánh. Ở Việt Nam, chúng ta thường xuyên kỷ niệm lễ Phục sinh, Giáng sinh …, tiểu thuyết, sách báo ta thường nói A-đam, Ê-va, Chúa,… tất cả đều có nguồn gốc từ Kinh Thánh.
Bởi vậy nếu không hiểu Kinh Thánh thì sẽ rất khó tìm hiểu văn minh phương Tây – nền móng của văn minh hiện đại, cũng rất khó hiểu về dân tộc Do Thái. Không đọc Kinh Thánh thì tất nhiên sẽ dễ nói, viết sai về các điển tích đó. Rõ ràng tất cả mọi người, nhất là người làm công tác văn hóa văn nghệ, giáo dục, xã hội … đều nên đọc Kinh Thánh.
Kinh Thánh ở Việt Nam
Có lẽ vì nghĩ rằng Kinh Thánh là sách riêng của Ki-tô giáo, tuyên truyền cho tôn giáo, nên ở ta không thấy hiệu sách nào có bán Kinh Thánh do nhà xuất bản của nhà nước chính thức phát hành rộng rãi như một tác phẩm văn hóa bình thường.
Thực ra các giáo hữu ở ta đều có cuốn Kinh Thánh do Toà Tổng Giám mục Hà Nội kết hợp Nhà Xuất bản Hà Nội in và xuất bản với số lượng lớn nhưng chỉ phát hành nội bộ giáo hữu. Cuốn Kinh này chỉ in Tân Ước nặng tính tôn giáo; Cựu Ước quan trọng hơn thì lại không được in, thật đáng tiếc. Sách khổ nhỏ cỡ bàn tay in trên giấy tốt, bìa ni lông. Ngoài ra các giáo hữu còn có sách “Kinh Thánh bằng hình” (phụ bản của báo “Công giáo và Dân tộc” in tại TP Hồ Chí Minh năm 1991, lượng in 25.000 cuốn); đáng tiếc là hệ thống phát hành của nhà nước cũng không phát hành cuốn này.
Lùng các hiệu sách cũ, người viết bài này mua được một bản Kinh Thánh toàn tập tiếng Việt, dày 1.400 trang giấy mỏng, bìa giả da, do United Bible Societies in tại Hàn Quốc năm 1995. Sách dùng cách hành văn và từ ngữ cổ, khó hiểu; phần Tân Ước dịch khác nhiều so với bản in của Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội.
Thiết nghĩ hệ thống xuất bản phát hành của nhà nước nên xuất bản phát hành Kinh Thánh như một tác phẩm văn hoá nghệ thuật nhằm khai thác kho tàng văn hóa vô giá này của nhân loại. Nên đưa việc học Kinh Thánh (nhất là Cựu Ước) vào chương trình giảng dạy phổ thông trung học. Cũng nên biên soạn các sách hướng dẫn tìm hiểu giá trị văn hoá lịch sử, khảo cổ … của Kinh Thánh. Việc tìm hiểu Kinh Thánh sẽ giúp chúng ta hiểu đúng đắn, toàn diện về văn minh phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại nói chung, giúp chúng ta hoà vào dòng chảy chung của văn minh toàn cầu, đồng thời thể hiện chúng ta biết tôn trọng văn hoá tôn giáo – một thành phần rất quan trọng của văn hoá thế giới.
Đây là một việc cần làm khi Việt Nam đã gia nhập WTO, hòa vào nhịp sống chung của toàn cầu, trong đó có đời sống văn hóa-tâm linh.
Nguyễn Hải Hoành là dịch giả và là nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội.
———————-
[1] Dân Hebrew có tục chị dâu góa chồng mà chưa có con thì được quyền lấy một trong các em trai của chồng. Giuđa (cháu nội tộc trưởng Abraham) bảo con trai thứ hai của mình là Onan : Con hãy ngủ với chị dâu con (là Tama) để làm tròn bổn phận em chồng – sinh người nối dõi cho anh con (anh của Onan là Êrơ do độc ác đã bị Thượng Đế Jehovah giết). Onan biết đứa con nối dõi ấy sẽ không thuộc về mình nên khi “ngủ” với Tama đã cố ý làm rơi tinh dịch ra ngoài. Thượng Đế coi việc đó là tội ác nên đã giết Onan (trang 45 Kinh Thánh, United Bible Societies, bản tiếng Việt 1995, ở đây có sửa lại văn cho dễ hiểu). Từ Onanism bắt nguồn từ Onan – tên người có sáng kiến dùng cách tránh thai ấy.
- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2015/07/15/kinh-thanh-tac-pham-van-hoa-vo-gia-cua-nhan-loai/#sthash.KIPAiyYL.dpuf
 Nguồn : Nghiencuuquocte.net

Thứ Tư, 25 tháng 12, 2013

TIẾNG VIỆT TRONG SÁNG



Tiếng Việt Trong Sáng?

Đào Văn Bình
(California ngày 02/01/2013)
Chữ viết và tiếng nói là phương tiện truyền đạt giữa con người và con người. Loài vật chắc cũng có tiếng nói qua những âm thanh như: hót, kêu, gầm, hú, sủa… để truyền đạt cho nhau nhưng loài vật không có chữ viết. Con người do trí thông minh, do bản năng tiến hóa, lại có ý thức, sau khi sáng tạo ra chữ viết, lần hồi biết tổng hợp, gọt giũa để biến thành văn chương. Còn tiếng nói cũng cải tiến không ngừng. Ngôn ngữ đi như bóng với hình với văn chương, từ thô thiển trở thành thanh tao, từ thẳng thừng trở nên bóng bẩy, từ thô lỗ trở nên ý nhị. Có thể nói văn chương càng phát triển bao nhiêu thì ngôn ngữ càng đẹp bấy nhiêu. Tư tưởng càng phát triển bao nhiêu thì văn chương và ngôn ngữ càng phong phú bấy nhiêu.
Thế nhưng muốn nắm bắt được tinh hoa ngôn ngữ của dân tộc dứt khoát là phải có giáo dục. Một đứa trẻ không được đi học vẫn nói được, nói liến thoắng đủ điều nhưng không viết được và chắc chắn ngôn ngữ rất nghèo nàn và thường mang âm hưởng “chợ đời” chứ không có những ngôn từ của một đứa trẻ được cắp sách đến trường mà ngày xưa gọi là “cửa Khổng sân Trình”. Không những phải học hết Lớp 12 phổ thông mà còn phải bước lên đại học nữa. Một người không thế có tiếng Việt phong phú nếu không học qua các bộ môn như lịch sử, triết học, tôn giáo, luật học, kinh tế học, tâm lý học, chính trị học, xã hội học, nhân chủng học, khảo cổ học, kiến thức về quân sự, ngoại giao... và ít nhất cũng phải biết qua các tác phẩm văn chương lớn của đất nước - cổ cũng như kim. Chỉ cần dành chút ít thời giờ đọc và nhớ ba tác phẩm như Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc và Chinh Phụ Ngâm thôi thỉ vốn Việt Ngữ của chúng ta cũng đã phong phú thêm biết là bao nhiêu.
Viết thì ai cũng có thể viết được. Nói thì ai cũng nói được nhưng xin nhớ cho trong bất kỳ quốc gia nào cũng có hai loại: Ngôn ngữ thượng lưu và ngôn ngữ bình dân; văn chương bác học và văn chương bình dân.
1/- Ngôn ngữ thượng lưu là lời nói văn vẻ, ý nhị, nhẹ nhàng, lễ  độ, dễ nghe, thâm thúy. Còn ngôn ngữ bình dân không phải là xấu, chân tình nhưng mộc mạc, thường thì cọc cằn, thô lỗ và không giữ gìn ý tứ.
2/- Văn chương bác học là văn chương cầu kỳ, gọt giũa, xử dụng nhiều ẩn dụ, điển tích. Còn văn chương bình dân không cầu kỳ, nghe là hiểu ngay không cần phải suy nghĩ nhiều. Có một điểm chung là dù loại văn chương hay ngôn ngữ nào đi nữa thì nó cũng phải trong sáng, thông dụng và dễ hiểu.
Theo dòng lịch sử, dân tộc ta đã tiếp nhận nhiều nền văn hóa bên ngoài du nhập vào. Trải qua 1000 năm Bắc Thuộc, tổ tiên chúng ta đã không để mất gốc - mà Việt hóa tinh hoa của học thuật, ngôn ngữ Trung Hoa, biến nó thành tiếng Hán-Việt khiến tiếng Việt trở nên phong phú. Rồi thì 100 năm thuộc Pháp, cha ông chúng ta cũng không để tiếng Việt bị lai căng. Dựa vào tinh hoa của nền văn chương Pháp, từ đó giản dị hóa, trong sáng hóa tiếng Việt. Còn ngày hôm nay, văn hóa Mỹ không vào Việt Nam bằng các tác phẩm văn chương, học thuật mà bằng đồng đô-la, Cola Cola, trò chơi (Games), phim ảnh gợi tình, bạo lực và bắn giết. Sách vở du nhập vào không phải là các tác phẩm văn học, học thuật tư tưởng lớn mà là các tạp chí về sắc đẹp, thời trang, son phấn, nước hoa, quần áo lót v.v.. tràn vào như thác lũ. Qua thương mại, qua các trang điện tử, quảng cáo và giải trí cùng với sự bùng nổ của kỹ nghệ truyền thông,  tiếng Việt có nguy cơ trở nên một thứ lai căng hổ lốn trong chớp nhoáng. Xin nhớ cho văn hóa Mỹ là một nền văn hóa áp đảo bởi vì nó là một nền văn hóa tiêu thụ đánh ngay vào thị hiếu cấp thời của con người cho nên các quốc gia chậm tiến nghèo khổ không sao cưỡng lại được. Trước nguy cơ đó đã nảy ra tiếng kêu cứu về tiếng Việt trong sáng.
     Nói về tiếng Việt trong sáng thì dễ nhưng nội dung của “tiếng Việt trong sáng” là gì? Theo thiển ý, sự trong sáng của tiếng Việt bao gồm nhiều yếu tố như:
- Không lai căng tức không chen tiếng Tây, tiếng Mỹ vào.
- Không tối nghĩa.
- Không gây hiểu lầm.
- Giản dị. (không cầu kỳ, rắc rối)
- Lịch sự, thanh tao.
Trong khi chúng ta chưa có viện hàn lâm, tạm thời dựa vào các tiêu chuẩn này, chúng ta thử “chẩn bệnh” một loại tiếng Việt mới đang được xử dụng tràn lan ở trong nước và hải ngoại. Loại tiếng Việt mới này chen tiếng Mỹ,  sáng chế những danh từ  kỳ quặc, khó hiểu mang tính khoe khoang, làm dáng.
1)  Nội y: Tại sao lại phải dùng chữ khó vậy? Đây chỉ là thứ quần áo lót /đồ lót của đàn ông hay đàn bà.
2)  Triều cường: “Triều cường làm ngập đường phố Hà Nội.”  Tại sao không dùng chữ nhẹ nhàng và dễ hiều hơn “ Nước dâng cao làm ngập đường phố Hà Nội.”
3)  Các thiết bị siêu trường siêu trọng: Các thiết bị nặng và dài. Các thiết bị quá nặng và quá dài.
4)  Xe container: Xe vận tải hạng nặng, xe tải hạng nặng.
5)  Các container: Các kiện hàng, thùng hàng
6)  Bunker/Boong-ke: Hầm trú ẩn.
7)  Blog: Trang tin chuyên đề/ trang chuyên đề. Blogger: Người viết trang chuyên đề.
8)  Audio-visual: Âm thanh & hình ảnh/ phần âm thanh & hình ảnh.
9)  Bình ắc-quy: Bình điện. Sạc (Charge): Tiếp điện, nạp điện.
10) Trái cherry to, đỏ mọng…Xin nhắc khéo báo phapluattp.vn rằng cherry là trái anh đào.
11) Mát-xa (Massage): Đấm bóp, nghề đấm bóp.
12) Ảnh nude: Ảnh khỏa thân, lõa thể.
13) Hot girls:  Gái ăn mặc hở hang, khiêu dâm.
14) Ăn mặc hot: Ăn mặc hở hang, khiêu dâm.
15) Ảnh hot: Ảnh có cảnh khiêu dâm hoặc gái ăn mặc hở hang, khiêu dâm.
16) Bản nhạc ấy hot lắm: Bản nhạc đang được ưa chuộng.
17) Thị trường đang hot: Thị trường bán rất chạy (trái với ế ẩm)
18) Top ten: Mười…đứng đầu. Mười hạng đầu.
19) Email: Điện thư.
20) Logo:  Huy hiệu.
21) Mít-tinh: Cuộc biểu tình, buổi tập họp.
22) Tiêm vaccine: Trích ngừa, chủng ngừa.
23) Logic: Thuận lý, hợp lý, lý đương nhiên (không cần tranh biện).
24) Clip: đoạn băng, đoạn thu hình ngắn. Mỹ định nghĩa clip: “A short part of a movie or television program...”
25) Một số danh từ quân sự: Nên sử dụng danh từ có sẵn trong ngôn ngữ Việt vừa mạnh vừa sắc gọn: Ví dụ: Tàu pháo = Pháo hạm; Tàu tuần dương= Tuần dương hạm; Tàu hộ tống= Hộ tống Hạm; Tàu khu trục = Khu trục hạm & Trục lôi hạm; Tàu khinh tốc= Khinh tốc hạm; Tàu vận tải= Quân vận hạm; Cảng quân sự= Quân cảng. Ví dụ:  Quân Cảng Cam Ranh để phân biệt với Thương Cảng Cam Ranh;  Đội tàu= Hạm Đội. Ví dụ: Hạm Đội Phú Quốc, Hạm Đội 7 v.v..
26) Bắt khẩn cấp: Cảnh sát bắt khẩn cấp…” nghe nó kỳ làm sao ấy. Tại sao không dùng “Cảnh sát đã bắt ngay, bắt gấp nghi phạm…” hoặc “Tòa ra lệnh tức tốc bắt ngay can phạm
27) Đóng mới: Đóng tàu là đóng tàu mới rồi, chẳng ai đóng tàu cũ cả cho nên thêm chữ ”mới” là thừa.
28) Cà-phê đểu: Đây là loại “cà-phê giả” nhưng cách dùng chữ của tác giả khiến người đọc hơi khó chịu. Xin nhớ cho có nhiều cách để diễn tả cùng một sự kiện, cách thì thanh tao, cách thì thô tục. Khi một đất nước tiến lên thì mọi thứ cũng phải tiến lên kể cả ngôn ngữ. Ngày nay hình như trên thế giới người ta dần dần loại bỏ những ngôn từ nghe có vẻ kỳ thị, xúc phạm, khinh rẻ hoặc gây ấn tượng bạo động. Chẳng hạn chữ nigger (mọi đen) ở Mỹ không ai dám nói nữa vì nó dùng để hạ thấp người Da Đen. Con người không thể ăn mặc thời trang, đi xe lộng lẫy, ở biệt thự, son phấn đầy người mà lại nói năng thô bỉ. Ngôn ngữ của một dân tộc có “văn hiến” thì mỗi ngày phải mỗi đẹp hơn và thanh tao hơn. Cho nên theo tôi một số ngôn từ sau đây như: đồ đểu, đồ con đĩ, đồ thất học, đồ hèn, đồ ngu, thằng mọi, đồ mất dạy, tiên sư cha mày v.v.. cũng cần phải loại bỏ trong ngôn ngữ Việt Nam.
29) Hoành tráng: Ngày nay ở Việt Nam cái gì cũng “hoành tráng” làm cho một số tính từ diễn tả vẻ đẹp lần hồi trở nên bị “tuyệt chủng”chẳng hạn như: Một ngôi nhà bề thế, một phòng hội khang trang, một khu chợ ngăn nắp, một kiến trúc trang nhã, một lâu đài tráng lệ, một cuộc diễn binh hùng tráng, một cung điện nguy nga, một ngọn núi hùng vĩ, một ngôi chùa cổ kính v.v…Nếu tất cả những tính từ trên được thay bằng hai chữ “hoành tráng” thì tiếng Việt sẽ ra sao?
30) Rất đẳng cấp: Cầu thủ đó rất đẳng cấp, bộ quần áo rất đẳng cấp, chiếc xe thuộc loại đẳng cấpBộ kho tàng ngôn ngữ Việt không còn chữ nào để thay cho hai chữ “đẳng cấp” nữa sao? Tại sao không nói: Cầu thủ nhà nghề, cầu thủ quốc tế, cầu thủ đắt giá; bộ quần áo đắt tiền; xe thuộc loại sang v.v.. Ngoài ra tự thân hai chữ “đẳng cấp” chỉ có nghĩa là “thứ bậc” như “đẳng cấp thấp”, “đẳng cấp cao” chứ  nó không có nghĩa là cao, giỏi, sang. Từ Điển Việt Nam do nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin ấn hành năm 2000 nơi trang 291 định nghĩa: đẳng cấp là thứ, bậc, hạng trong xã hội như đẳng cấp xã hội.
31) Phỏng vấn trực tuyến: Chữ tuyến nghe có vẻ hình học. Nào là trung tuyến, tiếp tuyến v.v…Tại sao không dùng “phỏng vấn trực tiếp” hoặc “giải đáp trực tiếp” tức không qua trung gian nào, mà trực tiếp trên truyền hình hoặc họp báo chứ không chờ tới ngày mai hoặc trả lời bằng thư.
32) Văn hóa ẩm thực: Văn hóa bao gồm nhiều lãnh vực như: cách ăn uống, y phục, nói năng, lễ nghi, chữ viết, giao tiếp, cư xử v.v…Nếu nói văn hóa ẩm thực thì chẳng lẽ lại có thêm văn hóa lễ hội, văn hoá y phục nữa sao? Vậy nói “văn hóa ẩm thực” là không đúng. Đó chỉ là các món ăn và cách ăn uống mà thôi. Khi chúng ta du lịch Hòa Bình chẳng hạn, ngoài việc ngắm phong cảnh, dĩ  nhiên chúng ta còn muốn thưởng thức các món ngon, lạ, độc đáo của đồng bào Mường và chỉ có thế. Nếu nói, “Chúng ta khám phá văn hóa ẩm thực của đồng bào Mường” nghe có vẻ “ghê gớm” quá.
33) Giải phóng mặt bằng: Nên thay bằng “giải tỏa mặt bằng” cho nó nhẹ nhàng. Chính phủ có thể giải tỏa một khu ổ chuột để chỉnh trang đô thị. Nhưng nếu nói “ Giải phóng một khu ổ chuột” có thể gây hiểu lầm là cứu dân ở đây ra khỏi cuộc đời lầm than như “giải phóng nô lệ” chẳng hạn.
34) Cảng biển: Nghe rất lạ tai. Tại sao không dùng “hải cảng”? Còn “cảng bay” tại sao không dùng “ phi cảng” ? Trong nước hiện có “Cảng Hàng Không Quốc Tế Đà Nẵng”. Rút gọn hơn chúng ta có thể dùng “Phi Cảng Quốc Tế Đà Nẵng”.
35) Báo vietnamnet.vn: “Những ‘bí mật’ trong hầm đường bộ Hải Vân” Sao dùng chữ “khó” quá vậy? Xin đơn giản thành “Những ‘bí mật’ trong đường hầm Đèo Hải Vân.” giống như “đường hầm Thủ Thiêm”. Nếu chúng ta viết “hầm đường bộ Thủ Thiêm” thì độc giả sẽ nghĩ sao?
36) Cũng báo vietnamnet.vn:Hội chứng hot girl nude giữa thiên nhiên”. Thực ra tác giả muốn đưa tin: Có một “bệnh dịch” hoặc “thói bắt chước” tạp chí dâm ô Mỹ chụp hình cởi truồng ngoài trời (để nổi tiếng) nhưng lại dùng một đoạn văn thật kỳ lạ.
37)Báo phunutoday.vn:  “Thành phố….vừa điều chuyển hai công chức không ’vừa lòng’ dân”. Chữ “điều chuyển” nghe chưa quen, nên nói là “thuyên chuyển”. Nếu trong quân đội thì nói là “thuyên chuyển tới một đơn vị khác”. Còn hai chữ “điều động” thì có nghĩa là điều động binh lực, nhân lực, điều động một lực lượng an ninh v.v..
38) Bố nghiện ma túy giết con 10 tháng tuổi: Chữ tuổi ở đây là thừa mà chỉ cần viết “Bố nghiện ma túy giết con mới 10 tháng” thì ai cũng hiểu. 
39) Người cao tuổi được mua vé xe buýt trợ giá. Nên viết “Người cao tuổi được giảm vé xe buýt”. Viết  báo cốt ở nhẹ nhàng, giản dị, dễ hiểu.
40) Báo giaoduc.net.vn có tựa đề: “Bé sơ sinh hai đầu ở Sóc Trăng đã tử vong”. Chữ “tử vong” có nghĩa là chết. Còn “thương vong” có nghĩa là vừa chết vừa bị thương. Vậy tại sao không dùng hai chữ “đã chết” cho nó nhẹ nhàng hơn?
41) Cận cảnh (close-up) là ảnh chụp gần, kề sát mặt. Nếu không phải là ảnh chụp gần mà chỉ là khoảng cách bình thường thì không được dùng hai chữ “cận cảnh”.
42) Chùm ảnh: Chữ “chùm” làm chúng ta liên tưởng tới chùm nho, chùm nhãn, dính chùm v.v…Vậy thì nên dùng chữ “một loạt hình ảnh”, “một số hình ảnh”. Ví dụ: Một số hình ảnh về đại hội…
43) Tiền boa: Nói đầy đủ là “pour boire” theo cách lịch sự của người Pháp  coi đó chỉ là chút “tiền trà nước”. Vậy thì nên dùng tiền trà nước thay vì “tiền boa” vì ông Tây đã rời Việt Nam lâu lắm rồi.  
44) Minh họa (Illustrated): Là hình vẽ của họa sĩ để diễn tả, trình bày một cuốn sách, một câu truyện. Nếu ngoài bìa cuốn sách ghi “Illustrated by” có nghĩa là “Vẽ bởi họa sĩ”. Nếu ghi “ photography by”có nghĩa “Hình ảnh của”. Ví dụ, trong một bài viết nói về Khu Trục Hạm Lý Thái Tổ mà chúng ta không có tấm hình của chiếc này và thay thế bằng tấm hình của chiếc khu trục hạm khác thì chúng ta không được ghi “Hình minh họa” mà chỉ cần ghi chú ở dưới tấm hình “Đây là hình ảnh khu trục hạm ABC một loại tương tự” thì độc giả hiểu ngay. Ngày nay câu “ hình minh họa” được dùng tràn lan ở trong nước để phụ chú dưới tấm hình…như thế là hoàn toàn sai. Xin nhớ cho minh họa có nghĩa là vẽ ra, diễn tả bằng tranh chứ không phải bức hình thật hoặc bức hình thay thế. Nếu không biết thì cứ mở  sach vở, báo chí Nhật, Mỹ, Nga… ra mà học thì biết ngay.
45) Trồng cây xanh: Trồng cây là đủ rồi bởi vì cây nào lá chẳng xanh? Nói thêm “xanh” là thừa. Nói “trồng cây xanh” chẳng khác nào nói “Trồng gấc đỏ”. Xin thưa gấc nào mà chẳng đỏ? Chúng ta thường nói “Đỏ như gấc”. Tuy nhiên cũng phải để ý là có khá nhiều loại cây lá không xanh mà nâu hoặc nâu đậm. Nếu “trồng cây xanh” thì chẳng lẽ không trồng các loại này sao? Ngày xưa các cụ đã chế giễu cách dùng văn thừa thãi và trùng lập qua hai câu thơ:
Nửa đêm giờ tý canh ba. 
Vợ tôi con gái đàn bà nữ nhi. 
46) Báo Tuổi Trẻ đi một tiêu đề như sau “Cầu thủ bóng đá VN luôn luôn thua thiệt cầu thủ ngoại khi tranh chấp bóng tay đôi do hạn chế về thể lực và thể hình.” Câu văn này nặng nề giống như dịch lại từ một đoạn văn từ báo Hồng Kông, Đài Loan. Người ta nói “tranh bóng” chứ  không nói “tranh chấp bóng”. Chữ “ tranh chấp” nên dành cho tranh chấp quyền lực, tranh chấp lãnh thổ. Ngoài ra các chữ “thể  lực và thể hình” nghe “đao to búa lớn quá” không thích hợp trong lãnh vực thể thao. Chúng ta có hai chữ “sức vóc” vừa giản dị vừa dễ hiểu tại sao không dùng? Xin thưa sứclà sức khỏe,  “vóc là sự cao lớn, tầm vóc. Nếu thay bằng hai chữ này, bỏ bớt những chữ thừa thì câu văn sẽ gọn nhẹ, từ 27 chỉ còn 19 chữ “Cầu thủ Việt Nam khi tranh bóng luôn luôn lép vế/thua cầu thủ nước ngoài do sức vóc kém.
47) Báo giaoduc.net.vn: “Cô gái xinh đẹp hát ca trù làm xiêu lòng người nghe.” Ông phóng viên nào đó dùng chữ “xiêu lòng” không đúng. Xiêu lòng có nghĩa là mới đầu không bằng lòng, sau thuyết phục, nói mãi thì “xiêu lòng” tức thuận theo. Tôi cũng đã xem đoạn băng này. Thực ra trong cuộc thi hát, cô thí sinh này còn trẻ, xinh xắn, mới 18 tuổi, mà hát được ca trù (cũng tàm tạm) cho nên chinh phục được hoặc tạo thiện cảm nơi khán giả chứ không phải làm “xiêu lòng” khán giả.
48) Đắng lòng trước cảnh: Từ trước đến giờ chưa có sách vở nào viết “đắng lòng” cả mà chỉ thấy viết “Đau lòng trước cảnh…” Xin quý ông/bà làm ơn coi lại hai từ này. Bà Huyện Thanh Quan viết “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc, chứ bà không viết “Nhớ nước đắng lòng con cuốc cuốc”.
49) Báo giaoduc.net.vn: “Chi phí dao động từ 30.000 USD đến 60.000 một năm”. Chữ ‘dao động” ở đây  thừa. Chỉ cần viết “Chi phí khoảng từ 30,000 USD đến 50,000 USD một năm” là người ta hiểu rồi. 
50) Cũng lại giaoduc.net.vn:NoithatVP đang thanh lý các sản phẩm tủ xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.” Trời ơi! Các sản phẩm tủ là gì? Tại sao không viết, “các loại tủ” cho ngắn gọn và dễ hiểu? Ngoài ra chữ “thanh lý” làm người đọc liên tưởng tới sự “thanh lý môn hộ” tức truy lùng, giết những kẻ phản nghịch trong các môn phái (cũng giống như “thanh trừng” vậy). Do đó chúng ta nên thay thế bằng các chữ giản dị hơn như “giải quyết” hoặc”bán hết” hoặc “tống hết”. Nếu thế thì câu văn sẽ tạm gọn nhẹ như sau: “NoithatVP đang muốn bán/giải quyết hết tất cả các loại tủ xuất cảng sang Nhật Bản.”
51) Báo phunutoday.vn: Trong tiết trời lạnh giá, boots cao cổ có lẽ là lựa chọn hàng đầu.”  Chẳng lẽ tiếng Việt không có chữ nào để dịch chữ boots sao? Xin thưa đó là “giầy cao cổ” hoặc “giầy ống”. Thật lạ lùng! Bao kẻ sống xa quê hương mấy chục năm trời mà vẫn tha thiết với tiếng Việt tinh ròng, trong khi kẻ ở trong nước tiếng Anh tiếng Pháp chẳng bao nhiêu, lại tập viết lối văn hổ lốn chen tiếng Tây tiếng Mỹ vào.
52) Báo vnEpress.net: Có một tựa đề “Gu đàn ông của phụ nữ qua từng độ tuổi.” Xin thưa “gu” (gout) có nghĩa là “sở thích”. Ý của tác giả muốn nói,Sở thích của phụ nữ về đàn ông tùy tuổi tác.” nhưng lại diễn tả bằng một câu văn thật trúc trắc. Rồi Thời Báo Kinh Tế Saigon Online Chương trình truyền hình càng lắm scandal thì rating tăng vọt.” Thật lai căng hết chỗ nói! Giống hệt như trẻ con nói tiếng Việt ở Mỹ.
53) Báo Vietnamnet.vn: “Việt Nam trong cuộc chơi quyền lực Mỹ- Trung. Cuộc chơi quyền lực chính là cuộc đọ sức. Tại sao không dùng hai chữ ấy cho giản dị và sáng sủa hơn?
54) Trang BBC tiếng Việt ngày 1/1/2013: Ít nhất 60 người đã bị dẫm đạp chết...”  Ý tác giả muốn nói “ Ít nhất 60 người dẫm đạp lên nhau mà chết..” nhưng lại dùng một câu văn khiến độc giả có thể hiểu 60 người này bị voi hoặc trâu bò dẫm đạp lên mà chết! Xin nhớ cho khi dùng chữ “bị” tức thể thụ động thì phải nói bị cái gìnhư : bị voi giày, bị xe cán, bị trâu bò húc chết v.v.. Chính mình làm thì không dùng chữ “bị”.
55) Trang VOA tiếng Việt: Hàng ngàn fan ở Đài Loan đã đến xem buổi ca nhạc..” ; “trang web xã hội”; “vi rút trong bao tử”; “không chịu gia hạn visa”; “một chương trình doping chuyên nghiệp”…và còn rất nhiều nữa. Xin thưa fan  người hâm mộ, vi rút  là siêu vi trùng, visa  nhập cảnh, doping dùng thuốc kích thích. Trang báo mang tên “tiếng Việt” mà thực tế lại là “tiếng Việt lai Mỹ”.
Tạm kết luận:
Viết một bài báo, một bản tin, đặt một tựa đề không phải dễ. Mình viết ra rồi cần có chủ bút/chủ biên duyệt lại. Ở Mỹ mà viết bậy, viết kém thì tiêu tan sự nghiệp, chỉ có nước tìm nghề khác kiếm ăn. Viết bậy, viết nhảm, viết thiếu đứng đắn làm giảm giá trị người viết và xúc phạm độc giả. Nói về chuyện viết văn thiếu đứng đắn tôi có một kỷ niệm thời thơ ấu lúc còn học Lớp Đệ Thất (Lớp 6) năm 1955 ở trong Nam như sau:
 Trong một bài luận văn mô tả một buổi đi câu tôi đã dùng hai chữ “khoái tỉ” tiếng mà bọn trẻ Miền Bắc hay dùng lúc bấy giờ có nghĩa là “sung sướng”. Chấm bài xong thầy Nguyễn Tri Tài - người Huế - gọi tôi lên nói, “Chữ khoái tỉ không được đứng đắn, con không nên dùng.” Nghe thầy nói vậy tôi “ngộ” ra ngay và cho tới ngày hôm nay, dù đã hơn nửa thế kỷ, tôi vẫn  nhớ lời thầy là phải dùng chữ cẩn thận khi viết văn. Đừng tưởng lời nói hay bài viết sẽ qua đi như một cơn gió thoảng - mà nó còn “tạo nghiệp”- nghiệp lành hay nghiệp dữ - tức gây tác hại cho người khác và cho chính mình theo giáo lý nhân-quả của nhà Phật. Trong cuốn hồi ký của một nhà văn xuất bản ở hải ngọai - một ông chuyên viết truyện dài đăng trên báo hằng ngày mà Miền Nam lúc bấy giờ gọi là viết “feuilleton”. Ông thường chen vào truyện một vài chi tiết khiêu dâm, gợi dục để “câu” độc giả trẻ. Một ngày kia cô con gái về khoe với ông, “ Ba ơi! Con bạn học của con đọc tới cái đoạn…mà ba viết, nó thích quá rùng cả mình !!!” Nghe con gái nói thế ông toát mồ hôi, không ngờ những gì  mình viết ra đã ảnh hưởng đến chính cô con gái cưng. Từ đó ông không bao giờ dám viết văn theo cái kiểu chen vào những chi tiết khiêu dâm nữa.  Hiện nay chữ “nhí” đang được dùng tràn lan trong nước. Xin nhớ cho chữ “nhí” là tiếng lóng dùng để chỉ “nhỏ, bé” có ý diễu cợt, không đứng đắn. Nếu dùng không đúng chỗ sẽ làm tổn thương người ta. Dù là trẻ em cũng có nhân cách của trẻ em. Chẳng hạn nếu chúng ta nói “ca sĩ tí hon”, “nhạc sĩ thần đồng”, “chú tiểu nhỏ”,  “con chim bé bỏng” nghe có vẻ thanh tao hơn là “ca sĩ nhí”, “nhạc sĩ nhí”, “chú tiểu nhí”, “con chim nhí”. Làm phóng sự, viết bản tin phải viết một cách trung thực, nghiêm túc, không bông đùa, châm chọc hoặc khôi hài vô ý thức. Bài viết sẽ bộc lộ tư cách và trình độ của người viết. Người xưa nói, “Văn tức là người”.
Ngôn ngữ và văn chương là tài sản vô giá do tiền nhân để lại, chúng ta phải có trách nhiệm bảo tồn và phát huy cho mỗi ngày thêm sáng đẹp. Do giao tiếp với nhiều nguồn văn hóa ngoại lai, những chữ nào có thể dịch sang Việt Ngữ thì phải cố mà dịch cho được để giữ gìn ngôn ngữ và văn chương Việt cho thuần khiết. Chen tiếng ngoại quốc vào tiếng Việt một cách bừa bãi khiến tiếng Việt trở nên lai căng, hổ lốn. Muốn thế thì phải học hỏi và nhất là phải cẩn thận và viết với tinh thần trách nhiệm. Trách nhiệm có nghĩa là hiểu được hậu quả của những gì mình viết ra. Nếu không giỏi thì cứ học theo người xưa mà viết ra, cố “sáng chế” tức viết bậy, viết nhảm. Chúng ta không nên đùa rỡn, nói mạnh hơn là phá hoại ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc. Học tiếng nước ngoài là để giao dịch, làm ăn buôn bán và nghiên cứu những kiến thức mà sách Việt không có. Học tiếng nước ngoài không có nghĩa là để về hủy hoại tiếng mẹ đẻ hoặc thỉnh thoảng xổ ra vài tiếng để chứng tỏ mình văn minh hơn đời hoặc có vẻ “Mỹ” đây. Người Mỹ có bắt chước ai đâu? Họ đứng trên đôi chân của họ. Tại sao ta phải tự ti mặc cảm về ngôn ngữ của dân tộc mình? Chuyện “nói tiếng Tây ba rọi” đã xưa lắm rồi và bị mỉa mai suốt thời kỳ Thực Dân Pháp còn đô hộ nước ta. Sau hết, cũng xin nhớ cho muốn giữ gìn tiếng Việt trong sáng thì tâm hồn mình cũng phải trong sáng trước đã. Tâm hồn trong sáng là tâm hồn của một người yêu nước Việt và tiếng Việt. Khi mình nói mình yêu cha mẹ tức là phải làm sao cho cha mẹ sung sướng. Còn khi mình nói mình yêu tiếng Việt có nghĩa là mình phải làm sao cho tiếng Việt mỗi ngày mỗi trở nên sáng đẹp, thanh tao.

 *****************************